Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư về phụ khoa thường gặp ở phụ nữ
Ung thư cổ tử cung có thể xảy ra với bất kỳ lứa tuổi nào nhưng thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi 35 trở lên. Với phụ nữ, đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời, bởi đây là độ tuổi mà chị em phụ nữ đảm nhiệm nhiều thiên chức lớn lao, họ đã làm vợ, làm mẹ, là người chăm sóc chính cho gia đình, đồng thời đã tạo dựng được sự nghiệp của mình.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung, ngày nay các nhà khoa học đã tìm và chứng minh rằng nguyên nhân chính là do virus có tên Human papillomavirus (HPV). Ở phụ nữ có độ tuổi từ 30 đến 60 đã qua quan hệ tình dục rất dễ bị virus này xâm nhập. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như:
- Quan hệ tình dục sớm (trước 18 tuổi) hoặc quan hệ với nhiều người. Yếu tố nguy cơ tăng thêm nếu bạn tình cũng có quan hệ tình dục với nhiều người khác.
- Sinh đẻ nhiều (từ trên bốn lần).
- Hút thuốc lá.
- Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là viêm sinh dục do nhiễm Trichomonas, Chlamydiae trachomatis, Herpes simplex virus type 2 (HSV2).
- Suy giảm hệ thống miễn dịch, rối loạn nội tiết (mắc bệnh HIV/AIDS, viêm gan mạn, tiểu đường, bệnh lý mô liên kết…)
- Các yếu tố khác như nghèo, lạc hậu, vệ sinh kém, giống nòi bất thường, thực phẩm nghèo chất dinh dưỡng (thiếu sinh tố A, C, axít folic, trái cây, rau tươi…)
Để phòng ngừa ung thư cổ tử cung, ngày nay các nhà khoa học đã nghiên cứu ra một loại vaccine và với việc tiêm vaccin đang là biện pháp phòng ngừa rất hiệu quả. Điều đáng mừng, đây là một loại ung thư có thể phòng ngừa được. Ung thư cổ tử cung nguy hiểm và nặng nề như vậy, nhưng để phòng ngừa căn bệnh này lại không quá khó. Có hai cách phòng ngừa là tiêm vaccin để phòng nhiễm các tuýp HPV gây Ung thư cổ tử cung và khám tầm soát ung thư cổ tử cung bằng phết tế bào cổ tử cung định kỳ cho những phụ nữ đã có quan hệ tình dục. Việc phòng ngừa đạt kết quả cao nhất khi kết hợp 2 phương pháp này.
Hiện nay, tại Việt Nam đã có vaccin ngừa những tuýp HPV gây ung thư phổ biến nhất, được tiêm cho phụ nữ trẻ dưới 26 tuổi, kể cả người chưa và đã có quan hệ tình dục đều có thể tiêm.
Bên cạnh đó những chị em đã có gia đình cần thực hiện khám phụ khoa và tầm soát bằng phương pháp phết tế bào cổ tử cung (PAP smear) định kỳ, ít nhất 1 năm/1 lần, để phát hiện kịp thời và có giải pháp điều trị ở những giai đoạn sớm của bệnh.
Ung thư cổ tử cung thường không có triệu chứng ban đầu mà chỉ đến khi ung thư phát triển sang các mô gần bên thì các triệu chứng mới bắt đầu xuất hiện. mà thông thường được biểu hiện bởi các dấu hiệu của bệnh phụ khoa nên rất dễ bị bỏ qua. Tuy nhiên, nếu có các biểu hiện sau đây có thể nghi ngờ và hãy đến ngay các bác sĩ chuyên khoa phụ khoa và chuyên khoa ung bướu để được khám, theo dõi và tư vấn:
Khí hư không bình thường
Cổ tử cung là phần ngoài của tử cung mà ung thư cổ tử cung thường phát triển bên trong miệng của cổ nên khi bệnh ung thư thì các tế bào xung quanh miệng cổ tử cung bị bong tróc ra, làm sản sinh rất nhiều khí hư (huyết trắng).
Đau hoặc chảy máu âm đạo
Ung thư cổ tử cung còn có thể phát triển xung quanh cổ tử cung, khiến bề mặt của nó trở nên khô, nứt. Do đó nếu có một lực tác động vào như quan hệ tình dục hay đi bộ đều có thể làm rách những lớp nứt đó và gây chảy máu, từ đó gây nên cảm giác khó chịu cho người bệnh.
Ngoài ra người bệnh còn có thể có các dấu hiệu khác thường làm cho người bệnh không chú ý như:
Thiếu máu
Việc chảy máu âm đạo bất thường có thể làm giảm số tế bào hồng cầu và lượng ôxy trong cơ thể, khiến cơ thể vô cùng mệt mỏi.
Đau lưng hoặc chân, khung xương chậu liên tục
Ung thư cổ tử cung có thể khiến cổ tử cung sưng phồng cho đến khi nó dựa được vào các mạch màu cạnh kề, làm cản trở sự lưu thông máu từ gót bàn chân lên phần còn lại của cơ thể, gây đau đớn.
Các vấn đề về tiểu tiện
Ung thư cổ tử cung có thể khiến thận và cơ trở nên khó tiếp cận và do đó đẩy nước tiểu tới bàng quang, khiến bạn khó đi tiểu.
Chảy máu từ trực tràng hoặc bàng quang
Khi cổ tử cung sưng phồng quá to, nó có thể làm tắc nghẽn bàng quang và trực tràng gần đó, tạo ra các đường rò nhỏ trong các mô.
Giảm cân nhanh và đột ngột
Ung thư – dù là loại nào – cũng đều làm giảm cảm giác ngon miệng. Bên cạnh đó, trong giai đoạn sau của ung thư cổ tử cung, cổ tử cung có thể phồng lên và ép sát vào dạ dày, làm giảm không gian chứa cho thức ăn. Tất cả những điều này gây ra việc giảm cân nhanh và đột ngột.
Để có thể phát hiện sớm bệnh ung thư cổ tử cung, ngày nay thường dùng phương xét nghiệm Pap smear và kiểm tra cổ tử cung bằng mắt thường có sử dụng axít axêtic (VIA) để tầm soát và sàng lọc phát hiện các tổn thương tiền ung thư
- Phương pháp kiểm tra cổ tử cung bằng mắt thường có sử dụng axít axêtic áp dụng tốt nhất cho phụ nữ từ 30 – 49 tuổi, nhóm tuổi này cũng là nhóm có nguy cơ cao nhất bị Ung thư cổ tử cung. kiểm tra cổ tử cung bằng mắt thường có sử dụng axít axêtic đơn giản về kỹ thuật thực hiện, phương tiện chỉ cần một chiếc đèn pin và dung dịch axít axêtic (giấm) cho nên được đánh giá là phương pháp phù hợp cho những nơi có điều kiện nguồn lực hạn chế. Hơn nữa, kiểm tra cổ tử cung bằng mắt thường có sử dụng axít axêtic cho kết quả ngay nên có thể thực hiện điều trị hoặc chuyển tuyến ngay trong cùng một lần đến sàng lọc. Nhờ đó, bệnh nhân không phải đến cơ sở y tế nhiều lần.
- Phương pháp Pap smear đã được thực hiện trên toàn thế giới trong hơn 50 năm qua, là phương pháp thường quy trong sàng lọc định kỳ cho phụ nữ ở các nước phát triển, góp phần giảm tới 70-80% ca Ung thư cổ tử cung tại các nước này từ những năm 1960. Tuy nhiên, những đòi hỏi cao về phương tiện kỹ thuật và kinh phí để phổ biến và duy trì phương pháp này lại không phù hợp với những nước có điều kiện nguồn lực hạn chế, trong đó có Việt Nam.
Khám phụ khoa định kỳ
Nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung là loại virus có tên Human papillomavirus. Virus này thường gây nhiễm ở phụ nữ có độ tuổi từ 30 đến 60 đã qua quan hệ tình dục. Đặc biệt, chủng 16 và 18 loại virus này là thủ phạm gây ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên hiện nay, phương pháp phết tế bào âm đạo- PAP’s có thể giúp phát hiện ung thư ngay từ lúc bệnh còn ở giai đoạn sớm. Nhờ đó cơ hội chữa trị mà không phải cắt bỏ tử cung của bệnh nhân ở mức cao. Vì thế, những phụ nữ đã có quan hệ tình dục hoặc trong độ tuổi có nguy cơ nhiễm bệnh, cần đến các bệnh viện chuyên khoa phụ sản mỗi năm ít nhất một lần để thăm khám.